Tư vấn luật số1 Tư vấn luật số1
0466588555
Tư vấn luật Tư vấn luật
Đường dây nóng Đường dây nóng
0466588555
Hỗ trợ quản trị Hỗ trợ quản trị
Văn phòng Văn phòng
0439780507
lo
Banner trai 01
Banner trai 02
Banner trai 03
Khách online: 148
Lượt khách: 3,515,125
Tìm kiếm tin tức

Ghi tên người vợ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng

Năm 1990, vợ chồng tôi kết hôn và đã tạo lập được tài sản chung là căn nhà trên thửa đất gần 100m2. Năm 1995, chồng tôi vào thành phố Hồ Chí Minh làm ăn. Đến năm 2003, UBND xã tiến hành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình trong xã, tôi đã đứng ra làm đầy đủ hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá thời hạn giải quyết đã lâu nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên tôi đến UBND xã yêu cầu trả lời. Cán bộ địa chính xã cho biết hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình tôi đã đầy đủ nhưng vì trong Sổ hộ khẩu ghi chồng tôi là chủ hộ nên cần chồng tôi đến làm thủ tục hoặc có giấy thể hiện sự đồng ý để tôi cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì xã mới có cơ sở để trình cấp có thẩm quyền giải quyết. Xin hỏi luật sư là việc cán bộ địa chính yêu cầu như vậy có đúng quy định của pháp luật không ? Xin cảm ơn luật sư.
Luật sư tư vấn:
 Việc cán bộ địa chính trì hoãn xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bạn vì lý do cần sự có mặt của chồng bạn, với tư cách là chủ hộ gia đình để thể hiện sự đồng ý về việc cho bạn cùng được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù hợp với quy định của pháp luật về quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản chung và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản chung của vợ chồng.
-    Quyền bình đẳng của vợ và chồng trong đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung
Trong trường hợp này, thông qua các giấy tờ có trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà  bạn đã nộp, cán bộ địa chính có cơ sở để khẳng định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng bạn. Đây là tài sản mà vợ chồng bạn đã đóng góp công sức chung để tạo lập và là tài sản hình thành sau khi hai bạn đã kết hôn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này bắt buộc phải ghi tên của cả vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau: trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
Như vậy, yêu cầu của cán bộ địa chính về việc cần có sự đồng ý của người chồng không chỉ trái pháp luật vì đặt ra thêm thủ tục mà pháp luật đất đai không quy định, hơn nữa còn thể hiện sự không coi trọng quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản chung.
-    Về việc ghi tên chủ sử dụng đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Căn nhà và thửa đất của vợ chồng bạn được xác định là tài sản chung của vợ chồng, do đó, theo điểm a khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai quy định, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải ghi đầy đủ họ, tên vợ và họ, tên chồng. Điều này đã được hướng dẫn cụ thể tại điểm d khoản 2 Điều 3 bản Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Do đó, việc chồng bạn đứng tên chủ hộ gia đình trong Sổ hộ khẩu không ảnh hưởng đến việc ghi tên cả vợ và chồng trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bởi đây không phải là trường hợp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
Với những phân tích trên cho thấy, việc cán bộ địa chính trì hoãn xem xét hồ sơ để trình cấp có thẩm quyền giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bạn là không đúng pháp luật. 

 
(Nguồn: Hoàng Giang)
CÁC TIN KHÁC:
Đăng ký sang tên quyền sử dụng đất do nhận chuyển nhượng từ năm 2008 nhưng mảnh đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (2/4/2014)
Diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trong hồ sơ địa chính có sự chênh lệch (2/4/2014)
Bỏ sót người thừa kế khi chia di sản thừa kế (26/3/2014)
Thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất nhưng không đăng ký quyền sở hữu nhà trên đất (26/3/2014)
Quyền của người sử dụng đất và căn cứ giải quyết tranh chấp đất đai (19/3/2014)
Đối tượng nào được đặc xá? (17/3/2014)
Trường hợp NLĐ bị chết trong thời gian chờ hưởng chế độ hưu (17/3/2014)
Trường hợp nào phải nộp phí đường bộ cho cả năm? (11/3/2014)
Con liệt sĩ được cấp thẻ BHYT (11/3/2014)
Người tâm thần có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? (3/3/2014)
Tranh chấp lối đi chung (28/2/2014)
Được cộng dồn thời gian đóng BHXH để hưởng chế độ thai sản (26/2/2014)
Người lao động bị tai nạn trên đường đi làm, được hưởng chế độ (24/2/2014)
Thủ tục hưởng trợ cấp người khuyết tật (24/2/2014)
Trợ cấp thai sản trên mức lương nào? (21/2/2014)
Tuyên truyền pháp luật cho người nghèo
Hội nghị tuyên truyền pháp luật cho Hội người khuyết tật
Tập huấn Bộ luật Hình sự năm 2015
Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 8/2017
Tập huấn Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 cho Hội viên
phai
phai 3
toaan
 
© 2011 - 2012 HỘI BẢO TRỢ TƯ PHÁP CHO NGƯỜI NGHÈO TP. HÀ NỘI
Địa chỉ: Tầng 2, số 170 Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội.Chịu trách nhiệm nội dung: Hoàng Văn Giang - Tổng Thư Ký Hội - Hotline: 0466588555
Điện thoại: 0439780507- 0466588555 - Fax: 0439780507 - Email: baotrotuphaphn@gmail.com/ tuvanplso1@gmail.com
Thiết kế và lưu trữ bởi TTC Design