Việc cán bộ địa chính trì hoãn xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bạn vì lý do cần sự có mặt của chồng bạn, với tư cách là chủ hộ gia đình để thể hiện sự đồng ý về việc cho bạn cùng được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù hợp với quy định của pháp luật về quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản chung và việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản chung của vợ chồng.
- Quyền bình đẳng của vợ và chồng trong đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung
Trong trường hợp này, thông qua các giấy tờ có trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bạn đã nộp, cán bộ địa chính có cơ sở để khẳng định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng bạn. Đây là tài sản mà vợ chồng bạn đã đóng góp công sức chung để tạo lập và là tài sản hình thành sau khi hai bạn đã kết hôn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này bắt buộc phải ghi tên của cả vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 như sau: trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
Như vậy, yêu cầu của cán bộ địa chính về việc cần có sự đồng ý của người chồng không chỉ trái pháp luật vì đặt ra thêm thủ tục mà pháp luật đất đai không quy định, hơn nữa còn thể hiện sự không coi trọng quyền bình đẳng của vợ chồng trong sở hữu tài sản chung.
- Về việc ghi tên chủ sử dụng đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Căn nhà và thửa đất của vợ chồng bạn được xác định là tài sản chung của vợ chồng, do đó, theo điểm a khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai quy định, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải ghi đầy đủ họ, tên vợ và họ, tên chồng. Điều này đã được hướng dẫn cụ thể tại điểm d khoản 2 Điều 3 bản Quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Do đó, việc chồng bạn đứng tên chủ hộ gia đình trong Sổ hộ khẩu không ảnh hưởng đến việc ghi tên cả vợ và chồng trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bởi đây không phải là trường hợp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
Với những phân tích trên cho thấy, việc cán bộ địa chính trì hoãn xem xét hồ sơ để trình cấp có thẩm quyền giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bạn là không đúng pháp luật.